Thống kê xã hội Cộng hòa Serbia Krajina

Kinh tế

Theo nhiều nhà nghiên cứu, trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa, các vùng về sau trở thành Serbia Krajina đều kém phát triển hơn nhiều so với các vùng khác trên lãnh thổ Croatia.[40] Cơ sở hạ tầng kém phát triển, tiềm năng du lịch và khối lượng đầu tư rất thấp. Trước chiến tranh, nhiều cơ sở công nghiệp ở Krajina nằm trong hệ thống công nghiệp Croatia hoặc Bosnia và Hercegovina. Chiến tranh gây thiệt hại lớn về cơ sở hạ tầng Serbia Krajina, làm gián đoạn sản xuất và giao thương. Nhiều công trình bị hư hại nặng nề. Các đòn trừng phạt kinh tế Nam Tư ảnh hưởng lớn Serbia Krajina, khiến tình hình kinh tế vốn đã khó khăn càng trở nên tồi tệ hơn.[135]

Nhà máy Tvik ở Knin

Trong quá trình thành lập nhà nước, chính quyền Krajina đề ra xây dựng nền kinh tế thông qua hợp tác chặt chẽ với Nam Tư và Serbia.[135] Tuy nhiên, dưới các lệnh trừng phạt quốc tế, sự hỗ trợ từ Beograd bị cản trở. Nền kinh tế Serbia Krajina tiếp tục duy trì hoạt động trong thời kỳ chiến sự.[136]

Năm 1992, chính phủ quyết định hỗ trợ các công ty thuộc sở hữu công cộng trước chiến tranh do đối mặt với khó khăn lớn. Nhà nước phát hành đồng tiền riêng - đồng dinar của Cộng hòa Serbia Krajina, nhưng do lạm phát cao, giá trị đồng tiền liên tục giảm. Siêu lạm phát bắt đầu vào năm 1993, ngân sách không thể cáng được. Đầu năm 1994, Nam Tư đổi sang tiền mới, một đồng dinar tương đương một mác Đức. Dinar Nam Tư được dùng làm đơn vị tiền tệ duy nhất ở Serbia Krajina và Srpska để ngăn chặn siêu lạm phát. Chính phủ mới của Borislav Mikelić thông qua ngân sách và bắt đầu tái thiết nền kinh tế.[135]

Nhiều công ty Serbia Krajina cố gắng định hướng lại thị trường trong nước và sang Serbia, phần nào đạt được thành quả. Chương trình bình ổn kinh tế - tài chính được phát triển năm 1994. Hệ thống tiền tệ và tài chính hoạt động phụ thuộc hoàn toàn vào Beograd. Đất nông nghiệp 700.000 ha được sử dụng tốt. Tuy nhiên, do thiếu nhiên liệu cho máy móc và không đủ kinh phí, nông nghiệp Serbia Krajina mang lại hiệu quả thấp. Cụ thể, ở miền Đông Slavonia năm 1994, 45% diện tích đất được chuẩn bị để gieo sạ, nhưng cuối vụ chỉ thu hoạch được 30%.[4] Diện tích 540.000 ha quỹ rừng cũng được tận dụng triệt để, với mức khai thác tăng hàng năm 1.500.000 m3 gỗ. Phương tiện truyền thông nhiều lần tuyên bố rằng nạn phá rừng ở Đông Slavonia do không có quy hoạch hay kế hoạch. Có ngành khai thác dầu nhưng không bù đắp nổi lượng thiếu hụt nhiên liệu.[137] Dầu thô Serbia Krajina được chuyển đến Pančevo ở Nam Tư để tinh chế, sau đó bán ra trên lãnh thổ Serbia Krajina. Một phần nhiên liệu được phân bổ về cho quân đội và bộ Nội vụ.[138]

Văn hóa giáo dục

Tháng 6 năm 1993, chính phủ Serbia Krajina quyết định thành lập Đại học Nikola Tesla ở Knin. Trường bao gồm bốn khoa: Khoa Triết học ở Petrinja, Khoa Nông nghiệp ở Beli Manastir, Khoa Kỹ thuật và Khoa Khoa học Xã hội ở Knin.[139] Giáo sư từ Serbia đến hỗ trợ giảng dạy cho trường.[139]

Hệ thống giáo dục Serbia Krajina đưa vào nhà trường các môn học: ngôn ngữ và văn học Serbia, lịch sử, địa lý, âm nhạc, văn hóa nghệ thuật, tự nhiên xã hội và nghiên cứu tôn giáo. Viện Sách giáo khoa và Hỗ trợ Giảng dạy, Beograd (Zavod za udžbenike i nastavna sredstva Beograd) hỗ trợ in sách giáo khoa. Từng học sinh và toàn bộ trường học nhận được hỗ trợ nhân đạo từ Serbia. Con cái liệt sĩ được nhận sách miễn phí. Ngoài Serbia, Hy LạpNga cũng hỗ trợ đáng kể cho hệ thống giáo dục Serbia Krajina.[140]

Mùa hè năm 1993, Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Serbia giúp đỡ thành lập Thư viện Quốc gia Serbia Krajina. Ngày 16 tháng 6, thành lập Nhà hát Quốc gia tại Knin. Ban nhạc tham gia các lễ hội âm nhạc tại Serbia Krajina cùng với sự góp mặt của các ban nhạc Srpska và Serbia. Sau đó, trung tâm phim tài liệu Krajina được thành lập ở Knin.[139] Nhiều sự kiện văn hóa được tổ chức tại Văn thể quân đội SVK, đặc biệt là ở Knin, Benkovac, Petrinja, Glina và Beli Manastir. Bên cạnh đó, các sự kiện văn hóa cũng diễn ra cho toàn xã hội.[141] Viện bảo tàng cũng được dự định lên chương trình thành lập. Các hoạt động bảo tàng được tổ chức tại Knin (Pháo đài Knin), Benkovac (Kaštel Benković), Petrova Gora, Topusko, Vukovar (Lâu đài Bá tước Elc) và Beli Manastir.[141]

Đài Phát thanh-Truyền hình Quốc gia Serbia Krajina phát sóng ra Benkovac, Knin, Gracanica, Korenica, Slunj, Vrginmost, Petrinja, Okucani, Vukovar, Borovo Selo, Mirkovci và Beli Manastir. Cuối năm 1993, nằm trong chiến dịch tranh cử của Milan Martić, chương trình "Truyền hình trên Plitvice" được Nam Tư hỗ trợ phát sóng.[141]

Sau khi Serbia Krajina sụp đổ tháng 8 năm 1995, nhiều học sinh sinh viên tiếp tục theo học tại Serbia. Mùa thu năm 1995, Giáo dục Serbia ghi nhận 15.900 học sinh tiểu học, 6.100 học sinh trung học và 1.890 sinh viên từ các gia đình tị nạn Serbia Krajina.[142]

Y tế

Trước chiến tranh, chương trình Chăm sóc sức khỏe Croatia bao phủ cả khu vực Krajina, do một quỹ duy nhất có trụ sở tại Zagreb. Ngân sách dành cho chăm sóc sức khỏe Krajina không đủ trang trải những nhu cầu lớn hơn. Tại Krajina, chương trình này có 9 trung tâm chăm sóc sức khỏe (Knin, Benkovac, Obrovac, Gračac, Korenica, Donji Lapac, Dvor na Uni, Kostajnica, Vrginmost, Vojnić) và 3 trung tâm y tế (Knin, Glina, Petrinja). Tỷ lệ cứ 1.412 người thì có một bác sĩ. Mức thấp nhất là ở Knin (532) và Petrinja (554), còn cao nhất ở Vojnić với tỷ lệ 2.233 người. Serbia Krajina 1.338 giường bệnh, tương đương 4,53 giường trên 1.000 dân.[143]

Vào đầu chiến sự năm 1991, dịch vụ y tế tại SAO Krajina được cải tổ theo hướng tự chủ và hợp tác với Bosnia và Hercegovina, Nam Tư. Mùa thu năm 1991, hai trung tâm y tế được thành lập ở Knin (DalmatiaLika) và Glina (KordunBanija). Dịch vụ chú trọng cho những người tị nạn từ các khu vực nằm dưới sự kiểm soát của quân đội ZNG (Zbor narodne garde - Đoàn Phòng vệ Quốc gia), tổng số khoảng 100.000 người. Trong suốt chiến tranh, Học viện Quân y Beograd và các tổ chức nhân đạo cũng như Giáo hội Chính thống giáo Serbia đã hỗ trợ rất nhiều cho các y bác sĩ Serbia Krajina.[144]

Thể thao

Ngày 28 tháng 9 năm 1992, luật Văn hóa Thể chất được thông qua. Sau đó, các liên đoàn chuyên nghiệp được thành lập như bóng đá ở Srb, bóng rổ ở Knin, bóng chuyền ở Vukovar, bóng ném ở Beli Manastir, cờ vua ở Borovo naselje,... Ngày 11 tháng 2 năm 1995, Ủy ban Olympic của Cộng hòa Serbia Krajina được thành lập tại Benkovac. Thể thao giữa Serbia Krajina, Srpska và Serbia đã hợp tác thành công tốt đẹp dưới sự nỗ lực của các đoàn thể Nam Tư và Sprska. Từ năm 1992 đến 1995 cũng có một giải bóng đá tại Serbia Krajina với câu lạc bộ nổi tiếng nhất là "Dinara" của Knin. Do bị phong tỏa mọi mặt nên thể thao Serbia Krajina trên trường quốc tế cũng phản ánh giống như vị thế chính trị.[145]

Trong suốt chiến tranh vẫn diễn ra các hoạt động thể thao. Đội Krajina tham gia Giải vô địch các môn thể thao mùa đông của Quân đội Cộng hòa Srpska tại Jahorina. Vận động viên karate đến từ Petrinja tham gia giải vô địch karate Nam Tư. Một số giải marathon được tổ chức, trong đó nổi tiếng nhất là cuộc đua Banja Luka-Knin dài 320 km.[146]

Ngày 22 tháng 5 năm 1993, diễn ra trận bóng đá giao hữu giữa đội tuyển Quân đội Serbia Krajina và Quân đội Republika Srpska. Hàng nghìn khán giả đến sân cổ vũ, trong số đó có Thủ tướng Serbia Krajina Đorđe Bjegović và Chỉ huy quân đội tướng Mile Novaković. Cầu thủ hai đội đều là quân nhân trên chiến trường.[141]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cộng hòa Serbia Krajina http://www.andrija-hebrang.com/homeland_war.htm http://books.google.com/books?id=1yUsAQAAMAAJ http://books.google.com/books?id=dY7shKpJ2B0C http://www.srpskapolitika.com/Tekstovi/Komentari/2... http://www.vladarsk.com/ http://www.scc.rutgers.edu/serbian_digest/151/t151... http://www.eparhija-dalmatinska.hr/Istorija1-c.htm http://www.eparhija-dalmatinska.hr/Manastiri-Krka-... http://www.eparhija-dalmatinska.hr/Manastiri-Krupa... http://www.lovas.hr/stradanje-u-domovinskom-ratu